💝 COLLOCATION 💝
Bí mật giúp bài IELTS Writing của bạn ấn tượng hơn
Đã có rất nhiều bạn hỏi tại sao phải dùng Collocation trong IELTS Writing trong khi hoàn toàn chúng ta có thể sử dụng những từ bình thường và sau đây là 3 lý do nên dùng collocations hơn.
⛔ LÝ DO 1: VÌ COLLOCATION LÀM CHO BÀI VIẾT CỦA BẠN “SANG” HƠN RẤT NHIỀU
Không cần nói nhiều, mình thử lấy một ví dụ sau, các bạn xem nhé!
Có ảnh hưởng xấu đến ai/cái gì:
- Diễn đạt bình thường: to have a bad effect on Sb/St
- Diễn đạt theo collocation: to exert a negative impact on Sb/St
Các bạn thấy không, nếu diễn đạt bình thường thì bài Writing của các bạn sẽ không có gì đặc biệt vì bạn đang sử dụng những từ vựng hết sức bình thường và không có giá trị trong IELTS.
Tuy nhiên, nếu bạn diễn đạt theo Collocation, chắc chắn bài viết của bạn sẽ xịn hơn rất nhiều, dùng collocation chứng tỏ bạn có một sự đầu tư nghiêm túc về từ vựng và cấu trúc, làm cho bài viết của bạn trở nên “đẳng cấp”, có đầu tư hơn và chắc chắn rồi, band điểm của bạn sẽ cao hơn rất nhiều!
Một số ví dụ khác cho các bạn dễ theo dõi:
Có lợi cho ai/cái gì:
- Diễn đạt bình thường: to be good for Sb/St
Diễn đạt theo collocation: to do wonders for Sb/St
Ví dụ điển hình:
- Diễn đạt bình thường: a clear example
- Diễn đạt theo collocation: a prime example/ instance
Chuẩn bị tốt cho cái gì:
- Diễn đạt bình thường: to prepare well for St
- Diễn đạt theo collocation: to be well-prepared for St
⛔ LÝ DO 2: VÌ COLLOCATION LÀ MỘT PHẦN TRONG TIÊU CHÍ CHẤM ĐIỂM CỦA BÀI THI
Trong bài thi IELTS Writing, tiêu chí về từ vựng (Vocabulary) là một trong những tiêu chí CỰC KỲ QUAN TRỌNG quyết định xem bài viết của bạn có thực sự tốt hay không. Sử dụng đa dạng từ vựng và cấu trúc sẽ là một lợi thế cực kỳ lớn cho bạn.
Trong một bài viết, nếu chỉ đặt nặng về sử dụng từ vựng, tức là bạn chỉ sử dụng những từ vựng hay nhưng lại không biết cách sử dụng những từ đi kèm hay ho với chúng thì bài viết của bạn cũng chưa được trọn vẹn. Đối với mình, mình chia từ vựng ra làm 2 loại:
- Từ vựng nâng thông thường
- Từ vựng theo collocation
Trong đó, từ vựng nâng cấp thông thường là những từ vựng được nâng cấp từ những từ vựng cơ bản
Ví dụ như “evident” là từ vựng nâng cấp của “clear”
Từ vựng theo collocation chính là những từ vựng nâng cấp dùng kèm theo những từ khác để tạo thành một cụm từ vựng chính xác và hay
Ví dụ như “to have a negative effect on” và “to exert a negative impact on St” như trên – “exert” và “impact” là những từ vựng hay rồi nhưng nếu bạn biết kết hợp chúng để tạo thành collocation thì sẽ còn hay và hiệu quả hơn nữa.
Các bạn hãy nhớ, giám khảo chấm thi IELTS sẽ không chỉ đánh giá đơn thuần trên từ vựng đơn lẻ các bạn sử dụng nữa mà sẽ dựa vào cả cách kết hợp từ bạn dùng. Các bạn chú ý nha!
⛔ LÝ DO 3: VÌ COLLOCATION CŨNG ĐƯỢC COI LÀ KHUNG XƯƠNG TRONG CẤU TRÚC CÂU HOÀN CHỈNH
Cùng nhìn lại những ví dụ mình đã lấy ở Mục 1, bạn có thấy rằng một cụm collocation gần như là cả một câu hoàn chỉnh không? Đúng vậy, có trong tay collocation thì coi như bạn đã nắm được 80% câu hoàn chỉnh bạn chuẩn bị viết ra rồi.
Ví dụ: “to come to an agreement”: đây là thành phần chính và chủ yếu trong câu nên những gì bạn cần làm để hoàn chỉnh câu này đó là thêm chủ ngữ và tân ngữ.
Có nhiều bạn nghĩ rằng collocation là một cái gì đó rất trừu tượng và lớn lao, tuy nhiên không phải vậy.
Collocation chính là cách bạn KẾT HỢP và SỬ DỤNG CHÍNH XÁC các từ với nhau, chính vì thế chúng ta dùng “to come to an agreement” chứ không phải là “to get to an agreement” hay “to go to an agreement”.
⛔ Cách học collocation và tài liệu học
Collocation học cũng như từ vựng và bạn cần biết cách ghi lại, tìm tòi các collocation mới.
Để học collocation hiệu quả, điều quan trọng là kiên trì, ghi nhớ collocation tự nhiên như từ vựng.
Khi học, bạn cần có một cuốn từ điển dành riêng cho collocation trước đã.
IELTS Fighter chia sẻ cuốn Oxford collocation dictionary để các bạn luyện tập. Trong sách này có nguồn collocations phong phú, bạn học và ứng dựng là tốt. Link tải nhé: https://bit.ly/3vUVKVK
Ngoài sách, bạn có thể học qua các nguồn từ điển, họ có ví dụ sâu để các bạn thêm thực hành nhé..
Một số trang bạn tham khảo:
freecollocation.com/ - Trang học collocation của Oxford
dictionary.cambridge.org/ - Trang học từ vựng và khi giải thích về từ, sẽ có collocations đi kèm, rất tiện.
Bạn chọn truy cập học trực tuyến hoặc tải app từ điển về đều được nhé.
-> Đây là nguồn học collocation trực tiếp, nhưng trong các bài tập Listening, Reading, Writing, Speaking khác, bạn cũng dễ dàng ghi nhớ thêm được nhiều collocation để ứng dụng về sau.
Nếu trong bất kỳ bài học nào, thấy các collocation thì bạn higlight lại.
Ghi vào sổ tay cụm từ đó, ghi rõ nghĩa, ví dụ để khi tìm lại học thì dễ dàng nhận ra.
Tốt nhất nên phân collocation theo topic vì như thế sẽ dễ nhớ hệ thống hơn.
Hãy ứng dụng thường xuyên collocation vào bài viết của bạn khi luyện tập. Nhớ được từ nào thì dùng từ đấy nhé. Nhưng đừng quá lạm dụng. Đến thời điểm bạn viết chắc, thì việc sử dụng collocation sẽ tự nhiên hơn.
Một số tài liệu hay về collocation, bạn tham khảo thêm:
⛔ Bên cạnh đó, có một bộ tài liệu nữa khá hay, bạn click thêm để học là English Collocations in Use: https://bit.ly/2xn28wJ
IELTS Fighter cũng tổng hợp một số collocations theo chủ đề, bạn tải thêm để học:
⛔ Tổng hợp collocation hay theo topic: https://bit.ly/2SifD7U
---
Tối nay chúng ta có lịch hẹn 21h00 cùng chữa đề Writing ngày 8/5 mới nhất với thầy Quân nha cả nhà!
「instance oxford」的推薦目錄:
- 關於instance oxford 在 IELTS Fighter - Chiến binh IELTS Facebook 的最讚貼文
- 關於instance oxford 在 巫師地理 Facebook 的最讚貼文
- 關於instance oxford 在 Quynh Huong Le Do Facebook 的最讚貼文
- 關於instance oxford 在 Art History: A Very Short Introduction | Facebook - Facebook 的評價
- 關於instance oxford 在 Representation Learning beyond Instance Discrimination and ... 的評價
instance oxford 在 巫師地理 Facebook 的最讚貼文
#跨國比較 #經濟發展 #公衛疾病 #統計圖表
🇬🇧牛津學者研究:🇹🇼臺灣經濟衰退率、死亡率皆全球最低
Which countries have protected both health and the economy in the pandemic?
牛津大學馬丁學院(the Oxford Martin School)專案研究員(Research Project Manager)Joe Hasell,提及一般人會認為對抗疫情,可能要犧牲經濟發展,但實際研究之後發現,台灣不僅對抗疫情,也保護了經濟發展。
In other countries, however, the economic impact has been much more modest. In Taiwan, GDP in the second quarter of 2020 was less than 1% lower than in the same period in 2019. Finland, Lithuania and South Korea all saw falls in their GDP of around 5% or less.
Joe Hasell比較了38個國家疫情狀況跟2020年第2季GDP表現(和2019年第2季比較),在考量通貨膨脹的情況下,這38個國家都呈現經濟衰退的情況,但台灣-0.6%最低,韓國-3%,美國-9.5%,日本-10%,衰退最多的是秘魯-30.2%。西班牙、英國、突尼西亞衰退也達到-20%。
Economic decline in the second quarter of 2020 vs rate of
confirmed deaths due to COVID-19
進一步分析,經濟衰退與疫情掌控之間的關係,台灣不僅GDP表現好,每百萬人死亡率也最低(台灣為0.29人),且南韓(6.3人)、立陶宛等國家,也有這樣的趨勢;秘魯(867人)、西班牙(620人)、英國(611人),不僅死亡率高,經濟衰退也大。
Notice too that countries with similar falls in GDP have witnessed very different death rates. For instance, compare the US and Sweden with Denmark and Poland. All four countries saw economic contractions of around 8 to 9 percent, but the death rates are markedly different: the US and Sweden have recorded 5 to 10 times more deaths per million.
還有,美國、瑞典、丹麥、波蘭,經濟衰退情況差不多,約8%到9%之間,但每百萬人死亡率美國552人、瑞典577人、丹麥107人、波蘭54人,兩者相差5到10倍之多。
Joe Hasell認為透過這些分析,可以得知有些國家採取的有效的政策,不僅控制了疫情,也保護了經濟發展,至於更完整的原因,仍有待未來疫情結束之後,累積更多的資料,進行更深入的分析。
https://ourworldindata.org/covid-health-economy?fbclid=IwAR0oC1xh3vJYctg1oQfVHYmWRRHr_zC0znn8MgtGvf4D2bitSfKGk_yhSLs
instance oxford 在 Quynh Huong Le Do Facebook 的最讚貼文
[Chia sẻ]
‘PERSONAL STATEMENT’ 🤗
– LÁ THƯ TỰ GIỚI THIỆU CỦA BẠN TIN NHÁI
Tin Nhái nhà mình đang theo học năm hai, hệ thống IB (International Baccalaureate – Tú tài Quốc tế) tại Anh. Hệ thống này, theo mình biết được áp dụng khá phổ biến tại nhiều trường quốc tế, và học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học theo hệ thống này sẽ được dựa trên kết quả học tập để đăng ký vào nhiều trường đại học trên thế giới chứ không chỉ tại Anh. Với quy định là mỗi học sinh sẽ được nhà trường cấp cho một kết quả học tập dự kiến với điểm số tổng của các môn các bạn chọn tùy theo ngành học (theo hệ thống IB, mỗi học sinh sẽ tự chọn 6 môn học, với hai mức: cơ bản và nâng cao). Tổng điểm dự kiến này được trường đưa ra dựa trên thực lực của mỗi bạn.
Sau đó, mỗi học sinh sẽ phải tự soạn một ‘Personal Statement’ – một dạng thư tự giới thiệu, để diễn đạt vì sao mình mong muốn vào trường đại học này. Một học sinh tại Anh thông thường được chọn năm trường đại học, tương tự kiểu ‘Nguyện vọng 1, Nguyện vọng 2… của bên mình). Sau khi các trường đại học ấy nhận được các Personal Statement này, trong vòng vài tuần tiếp theo, các trường hợp nào được các trường quan tâm, các trường sẽ gửi thư lại. Có trường hợp thì thông báo nhận luôn (dĩ nhiên là với điều kiện cuối năm kết quả thực tế phải đạt hòm hòm với kết quả dự kiến); có trường yêu cầu thực hiện phỏng vấn.
Với trường hợp cụ thể của Tin, trong năm trường đã gửi Personal Statement đi, Tin được thông báo nhận thẳng vào một trường. Trường thứ hai, sau khi qua phỏng vấn, cũng được thông báo là nhận luôn. Duy có trường hợp làm Tin căng thẳng nhất, là cụm đại học Oxford, trường hẹn lên lưu lại trường trong vòng ba ngày để dự hai cuộc phỏng vấn và thi đàn cho đầu vào hai trường đại học thành viên trong cụm trường này. (À, để mình giải thích thêm về khái niệm Đại học Oxford. Oxford không phải là một trường đại học duy nhất, mà là một quần thể, gồm 39 trường đại học thành viên (tính cho tới năm nay), quây quần cùng nhau trên địa bàn trung tâm thành phố Oxford, tạo nên một thương hiệu Oxford University nhiều năm qua đào tạo ra nhiều nguyên thủ quốc gia của nhiều nước trên thế giới đó. Các đại học thành viên được gọi là các College, chứ ở Anh, College không mang nghĩa là trường Cao đẳng như ở Mỹ).
Tin Nhái nhà mình không nằm trong nhóm học sinh xuất sắc nhất của trường. Tuy vậy, việc nhờ một Personal Statement mà được nhiều trường tiếp nhận một cách nhiệt tình như vậy, nhìn theo một cách nào đó, vẫn chứng minh rằng cái Personal Statement này tương đối hiệu quả. Mình nằn nì mãi, cậu chàng mới chuyển cái Personal Statement của cậu sang cho mình xem. Mà còn mắc cỡ, nói con gửi đi hết rồi con mới gửi mẹ coi, coi như tham khảo thôi đó, chứ không phải xin ý kiến hay nhờ mẹ ‘chỉ điểm’ gì đâu, nha… 🙂
….
… Choy oy, ta nói, mình coi xong…, rụng nước mắt hết mấy chỗ, haha. Hèn chi mà ảnh hỏng ‘lụm tim’ mấy thành viên ban tuyển chọn hà!
Sáng nay Tin báo, con cũng đã qua xong nốt hai cuộc phỏng vấn tại đây rồi. Mình nói, những gì tốt đẹp nhất con đã cố gắng hết sức, và đã thể hiện được. Còn lại, mình để tùy duyên đi con.
Mình đợi con xong phần phỏng vấn rồi mới nói với Tin, cho phép mẹ chia sẻ với bạn đọc trang mẹ, về những kinh nghiệm của con khi viết Personal Statement để có được ấn tượng tốt đẹp nơi các trường, nha. Và mẹ sẽ muốn chia sẻ ngay giai đoạn này, khi hai cuộc phỏng vấn vào Oxford còn chưa có kết quả, để ý nghĩa của sự chia sẻ này nằm đúng vào tính hiệu quả của Personal Statement mà thôi. Sẽ có không ít các bạn cũng đang học IB hoặc tương tự muốn tham khảo dạng thông tin này, các bạn sẽ đỡ lúng túng hơn. Tin đồng ý.
Theo đó, Tin nói, Việt Nam mình tuy giáo trình dạy Văn nhiều chỗ cũng còn bất cập, tuy vậy, tinh thần chung: thể hiện được cảm xúc của mình vào các bài viết - là một điều con cho rằng rất hay nha mẹ. Các bạn con từ các nước tiên tiến hơn mình tới, các bạn viết Personal Statement đều rất tốt, rất chuẩn, nhưng nhiều bạn viết đọc ra trong đó thấy hơi khô khan, không ‘nhìn’ ra được đam mê của các bạn, cũng ít nhìn ra được ‘nét riêng’. Vậy, mình đoán, chính cái ‘nét riêng’ này sẽ thu hút sự chú ý của những nhà tuyển chọn, vốn phải đọc hàng trăm thư tự giới thiệu gửi về.
Tiếp theo, cần phải xác định: cảm xúc chỉ là chất dẫn, còn trong phần nội dung chính, ta vẫn phải có sự phân tích đủ sâu vấn đề mà mình quan tâm, được thể hiện theo quan điểm riêng của mình, dưới góc nhìn riêng của bản thân.
Cái kết cũng là phần không kém quan trọng, khi chốt lại vấn đề, mà vẫn thổi vào đó một chút cảm xúc. Ở đây, Tin cũng đã dùng một loại thủ pháp mẹ Tin cũng rất thích dùng… Đó là câu kết lặp lại chính cái ý mình dùng để mở đầu bài. Như vậy sẽ tạo được một dạng ‘điểm nhấn’ nhẹ nhàng, xóa mờ đi cảm giác ‘quá học thuật’ mà phần nội dung đã bắt buộc phải chuyển tải.
Để mọi người dễ tham khảo, mình xin trích đăng nguyên văn phần Personal Statement của Tin dưới đây bằng tiếng Anh nhé. Mình chuyển ngữ phần đầu và hai phần cuối, được gắn luôn vào dưới mỗi đoạn gốc. Riêng đoạn giữa quá tập trung vào chuyên môn phân tích âm nhạc cổ điển, xin phép không cần dịch phần này.
Hy vọng rằng Personal Statement này cung cấp được vài khái niệm về ‘nét riêng’ trong thể hiện, để giúp thêm cho nhiều bạn trẻ khác, trong bước đường tiếp tục con đường học tập của mình, nhé!
(12.12.2019 – QH)
---
[Personal Statement – Toai Nguyen]
[Thư tự giới thiệu vào trường đại học - Ứng viên Toai Nguyen]
At the age of 4, I vaguely remember the first time touching an enormous object that my mum called a Pi-a-no. Since then, music has become inextricably linked to my life. In the first week staying in the UK, without access to my school's piano, homesickness would have been extremely difficult to manage. Hence, the first reason why I am particularly interested in this course: Music helps me to release all of the psychological pressures and apprehensions that I have got.
(Năm lên bốn tuổi, tôi mơ hồ nhớ cảm giác được chạm tay lần đầu tiên vào một vật thể to đùng mà mẹ tôi gọi là “đàn Pi-a-no”. Kể từ ngày ấy, âm nhạc đã gắn liền với tôi như hai người bạn tri kỷ. Trong tuần lễ đầu tiên xa nhà đi học tại nước Anh, nếu không có cây piano tại trường, có lẽ nỗi nhớ nhà đã trở nên khó mà chịu nổi. Và đó cũng chính là lý do đầu tiên vì sao tôi đặc biệt quan tâm tới chuyên ngành này: Âm nhạc giúp tôi giải tỏa toàn bộ những căng thẳng và lo lắng tích tụ trong tôi).
In times of pressure, I found Chopin's Waltz op. 64 no.2 my perpetual favourite. Generally, I am interested in the piece's tempo indication: tempo giusto, which is fully contradicting; although the musicians may choose the tempo they prefer, following it strictly is a must. I wish to move towards strong analytical understandings of the piece (e.g. comparing features of the chromatic phrases on bar 13-16 and 45-48 respectively). Firstly, the second ascending chromatic phrase is faster than the first descending one, marked pìu mosso. Secondly, although both phrases diminuendo, their roles are quite distinct; the one on the first phrase combined with the cadential chords G#m6/4-D#7 emphasise the return of tempo I surprisingly when G#7 appears on bar 16 as a dominant of D#7, whereas the similar indication on the second one tends to push the piece, poco un poco rit, towards a peaceful ending, instead of preparing for another surprising event. Most importantly, the structures of these two phrases are relatively different; although the first one is properly chromatic, Chopin decided to duplicate all the notes (G#-G#-Fx-Fx-F#-F#...) in order to fulfill his progress of prolongation, whilst the second one is a non-continuous long phrase, where 2 shorter phrases (F#-G-G#-A and D#-E-E#-F#-Fx-G# respectively) are separately involved to resolve the piece at the high C#.
(Trong những lúc căng thẳng, bản Waltz op. 64 no.2 của nhà soạn nhạc Chopin là chọn lựa hàng đầu của tôi để nghe, để chơi, để giải tỏa).
(Tiếp theo là phần phân tích chuyên môn về tiết tấu, hòa âm, cấu trúc tác phẩm…)
I also love reading history and geography, and I sincerely believe that contextual knowledge (e.g. Polish Romanticism in Post-Duchy of Warsaw) and knowledge of the composer will facilitate my musical understanding. I have been asking some questions in terms of musical history, even though I do not formally study it at school. One of them, as someone raised in the non-Western world, was "Why are the most common musical indications in Italian, although German-speaking composers, such as W.A.Mozart and the 3Bs, are arguably more canonical?" In this case historical reading lead to the answer; the general influence of the Catholic church in the late Medieval and Renaissance periods is the starting point: For instance, thanks to Guido d'Arezzo, a Benedictine monk, the modern-day stave was created; early religious compositions like cantata, toccata and oratorio indubitably originated in Italy and spread throughout the West. The works of many important Italian instrumental makers in the Renaissance and Baroque periods acquired widespread fame, to say nothing of the material aspects such as the widespread adoption of Cristofori’s Fortepiano in the mid-18th century and the enduring reputation for quality of Italian instruments (such as the string instruments of Stradivari and Del Gesù). Hence, for a variety of reasons Italian musical culture came to be regarded as the standard, and Italian terminology was adopted widely. This is an elementary example of the questions about the relationships between the historical and cultural aspects of music, another reason why I chose to apply to the university's music degree.
(Tôi cũng thích đọc những tài liệu về lịch sử, địa lý và tin rằng những kiến thức về bối cảnh xã hội cũng như vị trí địa lý của một nền âm nhạc (chẳng hạn như “Âm nhạc Lãng mạn ở Ba Lan ở thời kỳ Hậu Công quốc Warszawa), thêm vào đó là sự hiểu biết về những nhà soạn nhạc nổi tiếng trên thế giới sẽ giúp việc học bộ môn Âm nhạc của tôi trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Mặc dù không được học bộ môn này một cách chính thức ở môi trường trung học, tôi đã từng đặt ra nhiều câu hỏi về lịch sử phát triển của Âm nhạc như một sở thích của bản thân; và một trong số đó, “Vì sao hầu hết những thuật ngữ Âm nhạc cổ điển được sử dụng rộng rãi nhất là tiếng Ý, trong khi những nhà soạn nhạc nói tiếng Đức (Ví dụ như Mozart và bộ 3B) thường được biết đến rộng rãi hơn?” Trong trường hợp này, tôi tin rằng việc đọc những tài liệu lịch sử và địa lý sẽ giúp tôi đưa ra câu trả lời chính xác nhất. Thứ nhất, chúng ta không thể phủ nhận rằng tầm ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo La Mã trên toàn cõi châu Âu trong thời kỳ Trung đại và Hậu kỳ Trung đại (Phục hưng) chính là yếu tố hàng đầu: Nhờ Guido D’arezzo, một giáo sĩ dòng Biển Đức sống vào thế kỷ 11, khuông nhạc (hiện đại) đã ra đời và dĩ nhiên trở thành một phần không thể thiếu trong môn Âm nhạc; một số tác phẩm mang tính chất thế tục tôn giáo như oratario, cantata và toccata bắt nguồn từ đất nước hình chiếc ủng (tức Italia) và được phổ biến rộng rãi ở phương Tây. Thứ hai, yếu tố làm nên sự khác biệt của Italia với các quốc gia khác đến từ những người sáng chế nhạc cụ: Xuyên suốt thời kỳ Phục hưng và Baroque, chúng ta không thể không kể đến sự phổ biến của cây đàn fortepiano được sáng tạo đầu tiên bởi Bartholomeo Cristorri di Francesco ở Italia vào thế kỷ XVIII, và đồng thời là sự trường tồn theo thời gian của những kiệt tác nhạc cụ bộ dây kinh điển được tạo ra bởi những nghệ nhân Stradivari và del Gesù. Nhìn chung, vì rất nhiều lý do mà Âm nhạc hàn lâm Italia được xem như là chuẩn mực của Âm nhạc Cổ điển (Đặc biệt là thời kỳ đầu), nên các thuật ngữ Âm nhạc cũng trở nên phổ biến theo. Đây là một ví dụ đơn giản của những câu hỏi về sự tương quan giữa các khía cạnh lịch sử và văn hóa của Âm nhạc, thêm một lý do nữa khiến tôi muốn chọn ngành học này.
I have had to carefully manage my time to study outside school and practise adequately, because the subject is not available in my school. Before arriving in the UK, I was managing the Secondary school's Music club; since being here, I have had the opportunity to perform several times a year including a graduation ceremony at Oxford Town Hall, as well as playing in the Community's programmes back in my home country during the Summer holidays. Wherever I go, the enormous object that I vaguely remember my mum called a "Pi-a-no" at the age of 4 will never be separated from me.
(Tôi đã phải xoay sở thời gian khá vất vả để vẫn theo học Âm nhạc bên ngoài cũng như luyện tập Âm nhạc được đường hoàng, bên cạnh đảm bảo học tốt các môn chính thống tại trường (vì môn Âm nhạc không có trong danh mục các môn học thuộc hệ thống IB ở trường tôi). Trước khi đến Anh, tôi từng có thời gian làm quản lý Câu lạc bộ Âm nhạc ở trường cấp 2; và tôi đã có cơ hội biểu diễn nhiều hơn khi đặt chân đến Vương quốc Anh – chẳng hạn như tại Lễ tốt nghiệp của khóa các anh chị năm trước vào năm ngoái, và tôi cũng biểu diễn trong một số chương trình tại quê nhà Việt Nam của tôi trong những ngày nghỉ hè. Dù ở nơi nào đi chăng nữa, cái vật thể to đùng mẹ tôi từng gọi là “đàn Pi-a-no” trong trí nhớ mơ hồ của tôi ở cái tuổi lên bốn năm nào sẽ không bao giờ tách rời khỏi cuộc đời tôi).
_****_
😊 Đi kiếm hình gắn vô bài viết này, ra mấy tấm hình cũ thấy thương quá... Hình đầu là những ngày đầu tiên ảnh mô tả "mơ hồ nhớ vật thể to đùng mà mẹ tôi gọi là 'Đàn Pi-a-no'" đó. Hình tiếp theo là đúng cái năm ảnh bắt đầu học nhạc, năm 4 tuổi. Hình 3... khỏi giải thích rồi. Bây giờ của ảnh và mẹ, toàn chụp màn hình lúc mẹ một đầu con một đầu thế giới không hà... 😊
instance oxford 在 Representation Learning beyond Instance Discrimination and ... 的推薦與評價
Representation Learning beyond Instance Discrimination and Semantic Categorization - Stella Yu. Oxford VGG. Oxford VGG. 352 subscribers. ... <看更多>
instance oxford 在 Art History: A Very Short Introduction | Facebook - Facebook 的推薦與評價
By Oxford Academic ( Oxford University Press) | Facebook | The first one ... Are we interested in psychoanalysis in art history for instance. ... <看更多>